Ngày đăng: 05-02-2018 Lượt xem: 1654
Cách đây 50 năm, thực hiện chủ trương của Đảng, với ý chí quyết chiến, quyết thắng, các Lực lượng vũ trang cách mạng cùng Nhân dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng loạt đánh vào các đô thị, căn cứ quân sự, cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên khắp chiến trường miền Nam; làm nên thắng lợi rất lớn, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris bàn về rút quân, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Đồng chí Lê Thanh Hải - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh
Năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản, Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân trực tiếp tham chiến, tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc cả về quân sự và chính trị. Nhưng sau ba năm, dồn sức mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966-1967 bằng 2 trận càn Crimp và Cedar Falls, quân Mỹ đã không thực hiện được âm mưu tìm diệt Quân giải phóng và bình định toàn miền Nam; mà ngược lại, phải chịu thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị, làm cho nước Mỹ ngày càng sa lầy vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” về chiến lược. Đảng ta đã nhận định tình hình bế tắc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; Bộ Chính trị quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam - Bắc, đưa cuộc chiến tranh phát triển lên bước cao nhất, đó là dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 01 năm 1968), quân và dân ta ở miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968[1]; tập trung vào các đô thị, trọng điểm là chiến trường Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn mà nổi bật nhất là chiến trường Sài Gòn - Gia Định. Từ đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 đến ngày 28 tháng 2 năm 1968, quân và dân miền Nam đã tiến công vào 4/6 thành phố, 37/42 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, trong đó có 4 Bộ Tư lệnh Quân đoàn, 8 Bộ Tư lệnh Sư đoàn, 2 Bộ Tư lệnh Biệt khu, 2 Bộ Tư lệnh dã chiến Mỹ và 30 sân bay, cùng hệ thống kho tàng quân sự của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, làm chúng bị tổn thất lớn, chấn động nước Mỹ, đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường, làm suy sụp ý chí xâm lược của Mỹ.
Lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Ðịnh – thành phố Hồ Chí Minh ra đời trong những ngày khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cách mạng miền Nam. Từ ngày được thành lập (ngày 4 tháng 9 năm 1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đùm bọc, che chở, giúp đỡ của Nhân dân, Lực lượng vũ trang thành phố luôn tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân; kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách ác liệt, đoàn kết một lòng, dũng cảm, mưu trí chiến đấu, lập nên những chiến công vang dội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng là đơn vị 2 lần Anh hùng của thành phố Anh hùng và lời khen tặng của Đảng bộ, chính quyền thành phố, kết tinh thành truyền thống trung thành vô hạn, bám trụ kiên cường, đoàn kết kỷ cương, năng động sáng tạo, quyết chiến quyết thắng.
Trong bài viết này, tôi muốn đi sâu về các hoạt động chiến đấu và tôn vinh những chiến công vang dội của lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định, một bộ phận của Lực lượng vũ trang thành phố trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược.
Từ ngày được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là Khu ủy, Bộ Chỉ huy Quân khu, lực lượng Biệt động từ không đến có, từ nhỏ đến lớn mạnh, đã thể hiện là đội quân đặc biệt, luôn tỏ rõ lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân, dũng cảm, táo bạo, mưu trí chiến đấu lập nên những chiến công chói lọi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Tiền thân của lực lượng Biệt động là các tổ chức Tự vệ quyết tử, khi toàn dân ta bước vào năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong thời gian đầu, nhiều đơn vị vũ trang và bán vũ trang tự phát mang nhiều tên khác nhau, nhưng tính chất hoạt động mang nét đặc trưng chung của lực lượng Biệt động là bí mật, táo bạo, bất ngờ, luồn sâu, đánh hiểm.
Với những chiến công đầu, trừng trị các tên đầu sỏ ác ôn như Ba zin - Chánh sở Mật thám Nam kỳ, cò Sáu Bé, chủ bút Việt gian Hiền Sĩ, Cao ủy Pháp ở Đông Dương trùm mật thám Pháp - đại tá Anhphen, tấn công rạp xinê Majastic, Câu lạc bộ sĩ quan Pháp và đặc biệt trận đánh kho Phú Thọ Hòa, kho bom đạn lớn nhất của giặc Pháp ở miền Nam, ghi những dấu son vào lịch sử đấu tranh oai hùng của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.
Nếu như trong kháng chiến chống Pháp, lối đánh Biệt động chưa thật rõ nét, hình thức chiến thuật có mặt chưa thật phù hợp, thì trong kháng chiến chống Mỹ, lực lượng Biệt động được xây dựng hoàn chỉnh, đặc biệt tinh nhuệ, có lối đánh độc đáo, chiến thuật phong phú, đa dạng hơn, nghệ thuật chiến đấu phát triển vượt bậc và đạt đến đỉnh cao, tương xứng với tầm vóc của cuộc chiến đấu mới.
Mặc dù địa bàn chiến trường trọng điểm không thay đổi, nhưng đối tượng tác chiến là quân Mỹ, ngụy có tiềm lực rất mạnh, thâm độc, xảo quyệt, thủ đoạn tinh vi hơn và quy mô cuộc chiến ở mức độ cao hơn, đòi hỏi phương thức và cách đánh biến hóa hơn, nhằm đánh những đòn hiểm hóc vào các cơ quan đầu não guồng máy chiến tranh của chúng, nhất là từ khi quân Mỹ và chư hầu có mặt tại Sài Gòn.
Chiếc xe GA-0603 được đội 67 Biệt động Sài Gòn sử dụng trong một trận đánh. Ảnh: sggp.org.vn
Lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định được phát triển đến đỉnh cao trong “chiến tranh cục bộ” (1965-1968). Dưới sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của Khu ủy, Bộ chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định, Phân khu 6, lực lượng Biệt động với lối đánh táo bạo, lập nên những chiến công vang dội. Tiêu biểu là các trận tấn công Phái bộ viện trợ Mỹ (MAAG), rạp hát Kinh Đô, các khách sạn (là nơi ở và giải trí của sĩ quan, cố vấn Mỹ - ngụy) như Caravelle, Brink, Metropol, Victoria, tàu chở máy bay Us Card, đại sứ quán Mỹ, Tổng nha cảnh sát, Lễ quốc khánh ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh.
Việt tấn xã (chính quyền Sài Gòn) ghi lại hình ảnh trận đánh KS Victoria của biệt động Sài Gòn. Ảnh tư liệu (SGGP)
Những trận đánh của lực lượng Biệt động đều mang ý nghĩa “kép”, vừa là đòn cảnh cáo, tiêu diệt, vừa cổ vũ Nhân dân chống Mỹ, vừa phối hợp với hậu phương lớn miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tạo nên tiếng vang lớn đối với chính trường và nhân dân Mỹ, khích lệ tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân thế giới chống chiến tranh phi nghĩa mà Mỹ đang gây ra ở Việt Nam.
Những trận đánh của Biệt động diễn ra chớp nhoáng, “xuất quỷ nhập thần”, với hiệu suất rất lớn, là nổi kinh hoàng của bọn xâm lược và tay sai. Đặc biệt trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Biệt động được chuẩn bị tốt về tinh thần, trang bị, vào trận chiến đấu với khát vọng hòa bình, không có gì quý hơn độc lập tự do. Các đội Biệt động đã bất ngờ đồng loạt tấn công vào các mục tiêu trọng yếu của Mỹ- ngụy, gồm dinh Độc Lập, đại sứ quán Mỹ, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh Hải quân, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm chủ trận địa nhiều giờ, vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng quân và dân miền Nam giành thắng lợi.
Thực hiện nhiệm vụ đột phá vào các mục tiêu trọng yếu trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã phát huy cao độ nghệ thuật quân sự độc đáo, tổ chức chỉ huy đánh địch ở đô thị với tinh thần dũng cảm tuyệt vời của các chiến sĩ cách mạng. Năm đội Biệt động với tổng số gần 100 đồng chí trực tiếp chiến đấu trong sào huyệt, đầu não của địch, với vũ khí bộ binh đã đánh trả xe tăng, thiết giáp, máy bay địch và lực lượng bộ binh tinh nhuệ Mỹ, ngụy gấp nhiều lần, với tinh thần dũng cảm cao độ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Hầu hết cán bộ, chiến sỹ Biệt động trực tiếp chiến đấu đã anh dũng hy sinh hoặc bị thương, bị sa vào tay địch. Ý chí, xương máu, công lao của lực lượng Biệt động đã dựng thành những tượng đài bất tử của Xuân Mậu Thân 1968.
Sài Gòn dưới chế độ Mỹ - ngụy là thành phố lớn nhất miền Nam, là “thủ đô” của địch, nơi tập trung các cơ quan đầu não của địch, trung tâm điều hành bộ máy chiến tranh xâm lược; là căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ ở Đông Nam Á, nơi phát đi các mệnh lệnh đàn áp lực lượng cách mạng, đàn áp Nhân dân ta; vì vậy được bố phòng, bảo vệ vô cùng cẩn mật. Chúng tổ chức ra ba vành đai phòng thủ để ngăn chặn ta từ xa, trong nội thành và ven đô chúng bố trí mạng lưới an ninh, cảnh sát, mật thám, phòng vệ dân sự,... dày đặc. Hệ thống khủng bố của địch cực kỳ tàn bạo, được đúc kết từ kinh nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới.
Các đơn vị bảo đảm có công rất lớn trong phục vụ chiến đấu nội thành qua hai cuộc kháng chiến, đặc biệt là trong thời kỳ chống Mỹ. Như chúng ta đã biết, trong một cuộc chiến tranh, muốn thắng địch không chỉ có lực lượng trực tiếp chiến đấu, mà phải có công tác bảo đảm hậu cần, hậu phương vững chắc. Trong hoàn cảnh bị địch ngày đêm rình rập, bố ráp, bắt bớ, ngăn chặn, chia cắt, triệt phá liên tục, thì công tác đảm bảo vật chất không chỉ đơn giản là “súng đạn, cơm áo, gạo tiền” mà là một trận chiến đầy cam go, dũng cảm, kiên cường, hy sinh đối với cơ sở cách mạng, cán bộ, chiến sĩ làm công tác bảo đảm, vì vậy, phải có căn cứ trong vùng địch; và đó chỉ có thể là căn cứ lòng dân vững chắc.
Để có vũ khí đánh địch trong thành phố, ngay từ khi hình thành các đội Biệt động nội đô, Khu ủy, Bộ chỉ huy Quân khu đã kiên trì, bền bỉ gầy dựng hệ thống bảo đảm hết sức công phu từ vùng căn cứ vào nội thành; coi đây là nhiệm vụ hàng đầu của lực lượng Biệt động. Việc đánh địch trong nội đô khó khăn bao nhiêu, thì việc xây dựng cơ sở, vận chuyển, trữ dấu bí mật, an toàn vũ khí, phương tiện,... càng thử thách, gian truân hơn gấp nhiều lần. Vì thế, lực lượng bảo đảm được tổ chức đa dạng và rất công phu, kiên trì, dựa vào Nhân dân, xây dựng căn cứ lòng dân để công tác và chiến đấu; thực hiện tốt phương châm ba hóa (hợp pháp hóa, nghề nghiệp hóa, quần chúng hóa) để tồn tại và phát triển ngay trong lòng địch.
Qua tổng kết về công tác bảo đảm, một chiến sĩ Biệt động trực tiếp chiến đấu ở nội đô, cần có 10 người làm công tác phục vụ chiến đấu. Đây là bí quyết độc đáo của lực lượng “giấu mặt” này, là biểu hiện sống động của ngành hậu cần đặc biệt, của lòng dân, khi mà từ già đến trẻ, từ nhà tư sản đến chị tiểu thương, anh kỹ sư đến người đạp xích lô... đều thực hiện nhuần nhuyễn, hiệu quả. Chính lòng yêu nước nồng nàn, sắc son với cách mạng, một lòng vững tin vào thắng lợi của cách mạng, ngày sạch bóng quân xâm lược, hòa bình, thống nhất, độc lập, lòng kính yêu Bác Hồ vô hạn đã tạo nên những căn cứ lòng dân vững chãi.
Chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta đã xây dựng được 14 hầm chứa vũ khí, 19 lõm chính trị, bao gồm 325 gia đình, tạo nên 400 điểm ém quân từ vùng trung tuyến đến nội thành. Điển hình căn cứ lòng dân là Vùng lõm chính trị - căn cứ Cách mạng Bảy Hiền có nhiều đơn vị, cơ sở cách mạng hoạt động, nhưng chưa bao giờ bị lộ. Nhiều đồng chí cán bộ đến đây đã chỉ đạo xây dựng phong trào cách mạng như đồng chí Trần Trọng Tân, Nguyễn Văn Thuyền, Hoàng Thị Khánh, Trương Mỹ Lệ, Đỗ Duy Liên, Lê Thanh Hải, Phan Tấn Thành,... Và nơi đây còn là điểm xuất phát của các đơn vị, các tổ Biệt động đánh vào các mục tiêu đầu não của Mỹ - ngụy tại nội đô Sài Gòn. Là Vùng lõm chính trị - căn cứ Cách mạng Bàn Cờ từng là nơi hoạt động, địa điểm sinh hoạt hội họp của các đồng chí lãnh đạo như đồng chí Trần Bạch Đằng, Lê Thị Riêng, Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi), Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, đồng chí Võ Văn Kiệt, Bác sĩ Dương Quang Trung,… và có nhiều cơ sở cách mạng hoạt động tại Bàn Cờ.
Mặc dù địch ra sức kìm kẹp, khủng bố, bắt bớ, chúng muốn xóa trắng các Vùng lõm chính trị như Bảy Hiền, Bàn Cờ,v.v... nhưng ngay trong lòng địch, dù khó khăn gian khổ đến mấy, ngọn lửa cách mạng vẫn âm thầm nhen nhóm, các tổ chức cách mạng do Đảng lãnh đạo vẫn bí mật hình thành và không ngừng phát triển, phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Biết rằng, nếu bị địch phát hiện, bắt bớ, chắc chắn sẽ bị tù đày, tra khảo, tịch biên tài sản và có thể bị tử hình; trong quá trình hoạt động nhiều cơ sở cách mạng bị địch bắt, dù bị tra tấn rất dã man, vẫn một lòng, một dạ trung thành với Đảng dù phải hy sinh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ tổ chức.
Để có những trận đánh địch vang dội, hiệu quả ở đô thị và đặc biệt là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhiều cơ sở cách mạng đã sống trên “kho” vũ khí hàng năm trời như gia đình các đồng chí Năm Lai, Ba Căn, Năm Mộc, Bảy Rau Muống. Gia đình chị Hai Phê - địa điểm xuất phát tấn công đại sứ quán Mỹ, sau tết Mậu Thân, bị địch bắt đày ra Côn Đảo. Tại tiệm phở Bình là gia đình ông Ngô Toại, số 7, đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), quận 3, nơi Sở Chỉ huy tiền phương Bộ Chỉ huy Phân khu 6 phát lệnh Tổng tiến công; ngay sau khi quân ta nổ súng tiến công các mục tiêu của địch, cả gia đình ông bị địch bắt, đánh đập, tra tấn rất dã man, sau đó bị đày đi Côn Đảo. Điển hình tiêu biểu trong công tác vận chuyển vũ khí từ căn cứ về điểm tập kết như vợ chồng ông nông dân Chín Khổ, ông Chín Ten,... bất chấp hiểm nguy, nhiều lần chuyển vũ khí cho lực lượng Biệt động. Biết bao gia đình, cơ sở cách mạng, hầm chứa vũ khí sau Mậu Thân bị địch bắt bớ, tù đầy, tra tấn rất dã man, tịch biên tài sản,...
Với bề dày truyền thống và thành tích chiến đấu đặc biệt xuất sắc, Biệt động Sài Gòn - Gia Định đã được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng 16 chữ vàng Đoàn kết một lòng, mưu trí vô song, dũng cảm tuyệt vời, trung kiên bất khuất; đã được Đảng, Nhà nước ta phong tặng, truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho 5 đơn vị và 31 cá nhân[2]; càng tôn vinh truyền thống tự hào của lực lượng Biệt động Anh hùng.
Từ đáy lòng mình, chúng ta cảm nhận sâu sắc rằng, sự hy sinh, mất mát để có được hòa bình, độc lập là vô giá; bởi đó là xương, là máu của nhiều thế hệ người Việt Nam, là nước mắt chảy lòng của những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, mẹ liệt sĩ, những mất mát, hy sinh cho ngày toàn thắng không thể lấy gì bù đắp được! Mỗi chúng ta bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào thuộc nhiều giới, nhiều dân tộc, tôn giáo,... ở mọi miền Tổ quốc đã cùng viết nên thiên anh hùng ca Xuân Mậu Thân 1968, những người còn sống và những người đã mãi mãi trở thành “dáng đứng Việt Nam” anh hùng; xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng tại thành phố và cả nước đã có người thân hy sinh trong Xuân Mậu Thân 1968 và trong suốt chiều dài của cuộc trường kỳ kháng chiến để giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng với cả nước, với miền Nam thành đồng, với thành phố mang tên Bác, những chiến công vang dội của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 sẽ sống mãi với các thế hệ Việt Nam. Mỗi chúng ta và các thế hệ đời sau có thể nhìn rõ ở đó sức mạnh phi thường của lòng yêu nước nồng nàn, của trí tuệ Việt Nam. Đó là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của khí phách Việt Nam, lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc , Nhân dân, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng và trường tồn của dân tộc.
Lịch sử dân tộc ta gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng chống giặc ngoại xâm. Trong những năm tháng kháng chiến, Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định rất kiên cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo đề ra nghị quyết, chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân, dựa vào dân để bám trụ địa bàn, lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh cách mạng ngay tại sào huyệt, đầu não của thực dân, đế quốc và chế độ tay sai. Dù khó khăn, gian khổ, ác liệt đến mấy, Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, miền Nam thành đồng Tổ quốc vẫn hướng về cách mạng, niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng, bài học “thế trận lòng dân” mãi mãi trường tồn trong chiến tranh giải phóng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong 2 cuộc kháng chiến thực tiễn đã minh chứng, không có căn hầm nào đủ sâu, rộng, bền vững bằng lòng dân, không có địa đạo nào đủ dài, vững chắc, an toàn bằng căn cứ lòng dân.
Nối tiếp truyền thống vẻ vang của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, truyền thống yêu nước và cách mạng kiên cường của dân tộc, ngày nay đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh đổi mới toàn diện và đồng bộ, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta hiểu rõ khó khăn, thách thức, song với tinh thần Xuân Mậu Thân 1968 nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thực hiện thật tốt các chính sách an dân, coi trọng việc phát huy cao độ những tiềm năng to lớn của Nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; biết tận dụng mọi thời cơ và thuận lợi vượt qua mọi khó khăn, thách thức; thành phố Hồ Chí Minh luôn vì cả nước, cùng cả nước, xây dựng thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình, luôn xứng đáng Thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu, Thành phố Anh hùng./.
- LÊ THANH HẢI - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh
[1] Đợt 1 Tổng tiến công và nổi dậy từ đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968, kết thúc ngày 28 tháng 2 năm 1968; Đợt 2 mở màn từ đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 1968, kết thúc ngày 18 tháng 6 năm 1968.
[2] +Anh hùng Liệt sĩ: Lê Văn Thọ, Nguyễn Văn Trỗi, Phạm Văn Hai (Cả nhì), Bành Văn Trân, Nguyễn Văn Kịp (Đồng Đen), Lê Tấn Quốc, Trần Phú Cường (Năm Mộc), Trần Văn Đang, Lê Văn Việt, Nguyễn Đình Chính, Võ Văn Hát,Nguyễn Văn Lém (Bảy Lớp), Nguyễn Văn Rí (Tám A), Nguyễn Hoài Thanh (Nguyễn Phổ), Nguyễn Thanh Tuyền (Bời), Tô Hoài Thanh (Tô Văn Phó), Nguyễn Gia Lộc.
+ Anh hùng: Bùi Văn Ba, Phạm Văn Ry, Nguyễn Văn Tăng, Đỗ Tấn Phong, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thị Mỹ (Oanh), Nguyễn Thị Thanh Tùng, Trần Thị Mai, Đoàn Thị Ánh Tuyết, Ngô Thanh Vân (Ba Đen), Nguyễn Đức Hùng, Nguyễn Thị Lan (Lan Mê Linh), Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê), Lê Thị Thu Nguyệt.