flag header

Tin tứcNhàn Đàm

Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc

Ngày đăng: 19-11-2020 Lượt xem: 3224

Để chống lại kẻ thù xâm lược, dân tộc ta từ xa xưa đã biết liên kết với nhau để tạo thành sức mạnh. Qua suốt chiều dài lịch sử, tinh thần ấy đã trở thành truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

1. Từ khi ra đời, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám  năm 1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy có những giai đoạn và sự kiện lịch sử thật đặc sắc và tiêu biểu cho tinh thần này. Những ngày đầu nước cộng hòa non trẻ, trong Quốc hội của nước Việt Nam khi ấy có rất nhiều những thành viên là người của các đảng phái, nhiều nhân sĩ, trí thức, nhiều quan lại cao cấp của chính quyền phong kiến đã vì nghĩa lớn về cùng nước non. Vì vậy, không có gì lạ khi trong tổng số 15 thành viên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ngày 28 tháng 8 năm 1945, ngoài các thành viên thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương còn có 2 thành viên thuộc Đảng Dân chủ là Dương Đức Hiền – Bộ trưởng Bộ Thanh niên và Vũ Đình Hòe – Bộ trưởng Bộ quốc gia Giáo dục và 4 thành viên Chính phủ không thuộc đảng phái nào là các ông: Nguyễn Mạnh Hà – Bộ trưởng Bộ quốc dân kinh tế; Vũ Trọng Khánh – Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Đào Trọng Kim – Bộ trưởng Bộ Giao thông công chánh; Nguyễn Văn Tố - Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội. Chính phủ Liên hiệp kháng chiến thành lập tháng 2-1946 gồm 10 bộ thì có 02 bộ là Quốc phòng và Nội vụ do người không đảng phái nắm, các bộ ngoại giao, kinh tế, xã hội, canh nông, do Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách) nắm. Việt Minh và Đảng Dân chủ chỉ nắm 4 ghế bộ trưởng. Hoàng đế Bảo Đại thoái vị và được mời làm cố vấn tối cao v.v…Trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I diễn ra vào ngày 02-3-1946, 70 đại biểu không qua bầu cử đã được Quốc hội nhất trí biểu quyết thành đại biểu chính thức. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược ở Miền Nam, hàng loạt các nhân sĩ, trí thức yêu nước nổi tiếng đã từ bỏ cuộc sống giàu sang phú quí đứng chung dưới bóng cờ của khối đại đoàn kết dân tộc. Có những giai đoạn, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ luôn là các nhân sĩ, trí thức ngoài Đảng.

2. Sau hơn 30 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong công cuộc đổi mới này có phần đóng góp lớn lao của tất cả mọi tầng lớp người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Trong công cuộc đổi mới đất nước, đường lối chủ trương của Ðảng, Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các chính sách, pháp luật. Mọi tầng lớp nhân dân đã nỗ lực chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà nước vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chưa khi nào, Đảng ta ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như trong những năm đổi mới vừa qua: Nghị quyết 23-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết 20-NQ/TW về xây dựng giai cấp công nhân; Nghị quyết 26-NQ/TW về nông dân; Nghị quyết 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức; Nghị quyết 09-NQ/TW về doanh nhân; Nghị quyết 25-NQ/TW về thanh niên; Nghị quyết 11-NQ/TW về phụ nữ; Nghị quyết 09-NQ/TW về cựu chiến binh; Chỉ thị 59-CT/TW về người cao tuổi; Nghị quyết 36-NQ/TW và gần đây là Chỉ thị số 45-CT/TW về chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài; Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác dân tộc; Nghị quyết 25-NQ/TW về công tác tôn giáo v.v… Tất cả những chính sách ấy đã dần đi vào cuộc sống, góp phần xây đắp khối đại đoàn kết trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tạo nên sự đồng thuận xã hội vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Đặc biệt, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai sâu rộng đã góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm  vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Tất cả những quan điểm, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc trong những năm qua, nhất là trọng giai đoạn đổi mới đất nước đã được ban hành và kịp thời thể chế hóa Hiến pháp và pháp luật nên đã từng bước đi vào cuộc sống đã khơi dậy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lí đất nước. Những kết quả đạt được trong các cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI và Nghị quyết Trung ương khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng như trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, đã góp phần làm cho “khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức”.

3. Tuy vậy, trong thực tế hiện nay, đã xuất hiện ngày càng nhiều những biểu hiện, những vấn đề bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên; là tình trạng tham nhũng, lãng phí; là phân hóa giàu nghèo ngày càng xa; là tình trạng vi phạm dân chủ diễn ra ở nhiều nơi, nhất là ở cơ sở... gây bất bình trong nhân dân; ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến uy tín của Đảng, của Nhà nước và mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân cũng như việc củng cố, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Văn kiện Ðại hội XII của Đảng đã nêu “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc. Ðề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”. Để thực hiện mục tiêu cao cả này, đòi hỏi Đảng phải động viên và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỉ cương trong đời sống xã hội. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận cần chăm lo, phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đặc biệt, Đảng phải chống được tham nhũng để lấy lại uy tín chính trị trước nhân dân. Chăm lo và tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam các cấp phát huy vai trò của mình trong đoàn kết, tập hợp nhân dân, phản biện xã hội. Cùng với đó, cần tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có quyền; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; vận động các tầng lớp nhân dân cùng Ðảng, Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Chăm lo và phát huy vai trò của các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt, cần nhanh chóng để hiện thực hóa các chủ trương của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ mọi định kiến, hòa giải dân tộc để cấu kết sức mạnh người Việt Nam ở trong và ngoài nước; phát huy truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa, khoan dung của tổ tiên, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một xã hội đồng thuận cao trên tinh thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định và phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.

Đất nước và dân tộc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cần sự chung tay góp sức của cả dân tộc, của cả người Việt Nam trong nước và ở nước ngoài. Trong bối cảnh ấy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chưa và không bao giờ là chuyện cũ.

                                                                                Viễn Trung