flag header

Tin tứcHồ sơ tư liệu

Quyền dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập - Giá trị và ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới

Ngày đăng: 04-09-2020 Lượt xem: 2144

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc được hình thành và phát triển như một quá trình lịch sử, gắn liền với hoạt động lý luận và thực tiễn phong phú của Người. Đặc biệt, quyền dân tộc Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong bản Tuyên ngôn Độc lập mà Người đọc trong ngày Quốc khánh 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình; đồng thời xuyên suốt trong các tác phẩm từ Yêu sách tám điểm của nhân dân An Nam, Bản án chế độ thực dân Pháp, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Chương trình Việt Minh đến Tuyên ngôn Độc lập ta thấy toát lên tư tưởng về quyền dân tộc của người Việt Nam.

Quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập

Sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1941, trước những thay đổi mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII và quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh. Người cho rằng: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được[1]. Dân tộc giải phóng thì giai cấp mới được giải phóng, từ đó cá nhân con người mới có quyền tự do và thụ hưởng các quyền con người khác. Ngày 25-10-1941, Tổng bộ Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình Điều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình: “Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[2].

Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với thế giới và nhân dân: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”[3]. Trước toàn thế giới, Tuyên ngôn Độc lập như là pháp lý đầu tiên khẳng định quyền sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.

Bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với thế giới về quyền của nhân dân, dân tộc Việt Nam:

Thứ nhất, đó là quyền sống. Đây là quyền số một mà thiếu quyền này không thể nói đến quyền khác. Quyền sống chính là vấn đề tiên quyết cho quyền con người. Quyền này được ghi nhận trong cả hai bản Tuyên ngôn nói trên của Mỹ và Pháp, không có quyền này thì mọi quyền khác đều vô nghĩa.

Hai là, quyền được sống sung sướng, được “mưu cầu hạnh phúc”. Đây là điểm nhất quán và là mục tiêu xuyên suốt cả cuộc đời Hồ Chí Minh, và cũng chính là đích hướng đến của chủ nghĩa xã hội: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Người từng nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ[4]. Ngoài ra, trong Di chúc, Người căn dặn Đảng và Chính phủ phải chăm lo cho cuộc sống của nhân dân: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[5], nếu để dân đói, rét, bệnh tật… là Đảng và Chính phủ có lỗi”.

Ba là, đảm bảo quyền bình đẳng, tự do. Trong hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp đều khẳng định quyền bình đẳng và tự do của mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đó là những quyền quan trọng của quyền con người. Mọi sự vi phạm bình đẳng và tự do đều vi phạm đến quyền con người. Vì vậy, phải giải phóng dân tộc, giành quyền độc lập vì đây là quyền chính trị cao nhất của con người, sau đó mới có thể xác lập được quyền con người và quyền công dân về các lĩnh vực chính trị dân sự khác. Việc thực hiện quyền dân sự và chính trị của con người lại là cơ sở, nền tảng để giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, là cơ sở để độc lập dân tộc có ý nghĩa.

Bốn là, quyền con người được nâng lên thành quyền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận từ hai phương diện đó là cá nhân và cộng đồng dân tộc. Từ giá trị lý luận về quyền con người trong bản Tuyên ngôn của hai nước Mỹ, Pháp, Người nâng lên thành quyền con người của cộng đồng dân tộc. Và đối với dân tộc Việt Nam, khẳng định quyền bình đẳng giữa mọi người và mọi dân tộc là lẽ tự nhiên, là chân lý. Với việc nâng tầm quyền con người thành quyền dân tộc, không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam - mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà còn có ý nghĩa đối với nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột khác trên thế giới. Vì vậy, Tuyên ngôn Độc lập 1945 có thể coi là Tuyên ngôn nhân quyền của các nước thuộc địa. Đồng thời, Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục đích cao nhất mà Người phấn đấu là độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó[6]. Người cho rằng, hòa bình là lợi ích của tất cả các dân tộc, do đó phải đấu tranh cho hòa bình trên thế giới được bền vững. Hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc. Muốn có hòa bình thực sự thì phải có độc lập thực sự.

Sau này, quyền dân tộc mà Hồ Chí Minh nêu lên trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã đi vào phong trào cách mạng thế giới, trở thành một giá trị phổ biến, được nhiều nước thừa nhận và tôn trọng. Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình[7]. “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường (Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc) là một thái độ bạn bè[8]. “Bất kỳ nước nào thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên, thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ cương quyết cự tuyệt[9]. Những lời tuyên bố trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ quyền tự do độc lập của mỗi dân tộc.

Từ cống hiến lý luận và thực tiễn to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc mà Người được vinh danh là Anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất, vì đã cống hiến xuất sắc vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trong đó có công lao to lớn góp phần xóa bỏ chủ nghĩa thực dân.

Giá trị về quyền dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

75 năm đã trôi qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền độc lập dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn nguyên giá trị, nhất là trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay. Đảng ta khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi[10]. Ý chí độc lập tự chủ trong Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa to lớn chỉ đạo tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Đảng và nhân dân ta, giúp chúng ta có ý thức sâu sắc hơn về bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ mà biết bao thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu mới giành lại được từ tay đế quốc thực dân.

Hiện nay, tình hình trên thế giới và trong nước đã, đang và sẽ diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế lớn, nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và gay gắt hơn. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại, thách thức. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng gia tăng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia - dân tộc.

Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau quyết liệt. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân túy trong quan hệ quốc tế gia tăng. Luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.

Kinh tế thế giới tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng và suy thoái chu kỳ. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt. Những vấn đề toàn cầu như bảo vệ hòa bình, an ninh con người, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… tiếp tục diễn biến phức tạp.

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức, nguy cơ lớn. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Trước bối cảnh này, chúng ta lại nhớ tới đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đặt nền móng cho đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp tồn tại bằng hòa bình thương lượng. Với cục diện thế giới và khu vực đang còn nhiều biến động, đang tiềm ẩn nhiều nhân tố gay mất ổn định như hiện nay, để đứng vững và phát triển, chúng ta phải xử lý khéo léo các mối quan hệ, nghĩa là phải chủ động thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa; cải thiện và mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước có chế độ xã hội và con đường phát triển khác nhau. Càng giữ vững độc lập tự chủ, càng có điều kiện để đa dạng hóa, đa phương hóa.

Ngược lại, càng thực hiện có hiệu quả đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, càng củng cố được độc lập tự chủ. Cơ sở khách quan của đa dạng hóa, đa phương hóa là sự trùng hợp về lợi ích (cả trước mắt và lâu dài), do đó, có thể tham gia liên kết cả về kinh tế thương mại, chính trị và an ninh. Mục tiêu của ta tham gia liên kết là nhằm thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển; nhưng không để các hình thức liên kết này trói buộc, hạn chế việc ta triển khai chính sách đối ngoại độc lập tự chủ. Thực hiện đường lối đối ngoại đó sẽ tạo thế đứng lâu dài và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Sau gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn, thách thức cần kiên quyết khắc phục để đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn.

Những năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều khó khăn, thách thức. Dịch bệnh toàn cầu như Covid-19 đang diễn biến phức tạp và chưa có phương thức chữa trị; xu hướng già hóa dân số nhanh; biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước.

Đặc biệt, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn là thách thức. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là những thách thức rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta trong thời gian tới.

Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập tiếp tục là kim chỉ nam trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, vận dụng tư tưởng của Người đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn những quan điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo đảm lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi.

Thứ hai, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên;

Thứ ba, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất;

Cuối cùng, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc./.

Hoàng Minh

Tài liệu tham khảo: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “75 năm bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” do Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng (Học viện Hành chính Quốc gia) phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật tổ chức.

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tập 7, tr.V-VI.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tập 7, tr.467.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 4, tr.3.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.175.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.612.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr. 272

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 39.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 163.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.145.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.153.