Ngày đăng: 27-08-2019 Lượt xem: 2215
Lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại khổ đau của Người trong Di chúc là thể hiện sự quan tâm của Người đến lợi ích của từng con người và lợi ích của cả cộng đồng. Đó cũng chính là sự biểu đạt đặc sắc chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, của nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh, suốt đời không màng danh lợi, chỉ khôn nguôi một hoài bão độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho đồng bào.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản Di chúc lịch sử. Năm mươi năm qua, Di chúc vẫn luôn soi sáng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến rất nhiều vấn đề: về Đảng, về tình đoàn kết, về lực lượng đoàn viên thanh niên, về công cuộc kháng chiến chống Mỹ, về phong trào cộng sản thế giới, về việc riêng…; và, điều không thể thiếu trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là Người viết về nhân dân lao động, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(1).
1. Trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài ngày 21/1/1946, Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(2). Đó không chỉ là khát khao, hy vọng mà còn là sự nhất quán trong tư tưởng và hành động của Người từ khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành lại độc lập dân tộc đến 24 năm ở vị thế một nguyên thủ quốc gia (1945-1969).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc; Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài mục tiêu phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân; bởi “nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(3). Vì vậy, trách nhiệm của Đảng, Chính phủ là đảm bảo tự do, hạnh phúc cho nhân dân, vì “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(4), người dân chỉ hiểu giá trị của độc lập tự do khi họ được ăn no, mặc ấm, được học hành, không bị áp bức bóc lột. Người căn dặn: cán bộ, đảng viên từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà tận tâm, tận lực phục vụ, nên ở đâu và lúc nào cũng phải luôn rèn luyện, phấn đấu để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(5). Chăm lo đời sống nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và thụ hưởng quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đầy đủ và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần.
Trong bao nhiêu công việc bề bộn Người dặn lại trước lúc đi xa thì: “Đầu tiên là công việc đối với con người”(6). Tư tưởng và mục đích cuộc đời hoạt động cách mạng của Người xuất phát từ con người và cuối cùng trở về với con người. Người từng nói: “Nghĩ cho cùng,… cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”(7). Đọc Di chúc, chúng ta thấy Người dành tình cảm yêu thương đối với tất cả mọi tầng lớp con người trong xã hội, từ các bà mẹ liệt sĩ, các gia đình thương binh…, đến những người vốn là nạn nhân của chế độ xã hội cũ đều được Người quan tâm chu đáo. Tình thương yêu, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không dừng lại ở những vấn đề chung nhất của toàn xã hội mà rất cụ thể đối với từng đối tượng trong xã hội. Người đã căn cứ vào vị trí xã hội, chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, cá nhân để phát huy tối đa phẩm chất và năng lực của mỗi con người trong từng lĩnh vực đặc thù. Hơn ai hết, Người thấu hiểu và trân trọng, tôn vinh những con người đã chiến đấu, hy sinh cuộc sống và hạnh phúc cá nhân, cống hiến mọi sức lực cho Tổ quốc. Phải tạo điều kiện để toàn bộ những thanh niên, phụ nữ, thương binh, bệnh binh, nông dân có cuộc sống tốt đẹp sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi.
Di chúc thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những người có công với nước như thương binh, bệnh binh, liệt sĩ và gia đình của họ. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sự sống của mình cho Tổ quốc. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ, những người vợ, người chồng và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân của mình. Kế thừa và phát huy đạo lý truyền thống ngàn đời của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, trong Di chúc Người căn dặn: “Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”(8).
Với thanh niên xung phong và những chiến sĩ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang nhân dân đã được rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu thì Người khuyên nên “chọn một số ưu tú nhất… đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”(9). Người khẳng định thêm: “Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(10).
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không quên nhắc đến phụ nữ và sự tiến bộ của phụ nữ. Người dặn dò, Đảng và Nhà nước ta cần “có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”(11). Người khuyên: “Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(12).
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dành sự quan tâm đặc biệt đến người nông dân – những người đã đóng góp nhiều về sức người, sức của trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong Di chúc, Người đề nghị: “miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”(13).
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn dành sự quan tâm đối với những người của chế độ cũ, những người lầm đường lạc lối, như: trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… Người đưa ra biện pháp cụ thể để giúp họ trở thành người lương thiện, đó là Đảng và Nhà nước “phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”(14).
Người cũng chỉ rõ, khi đất nước đã trải qua những năm dài chiến tranh, việc hàn gắn những vết thương của thời hậu chiến là công việc nặng nề, phức tạp nhưng cũng rất vẻ vang. Người nhắc nhở Đảng ta, cùng với nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là giải quyết tốt công việc đối với con người, Người còn yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(15). Phát triển kinh tế nhằm thỏa mãn các nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại…, nghĩa là thỏa mãn các nhu cầu của sự sinh tồn và phát triển của con người; nhưng không chỉ quan tâm một chiều mà điều cần thiết nhất là phải làm sao giáo dục bồi dưỡng, nâng con người lên, khuyến khích mỗi người “tự lực cánh sinh” cùng chung tay vào sự nghiệp xây dựng một xã hội mới “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc việc quan tâm đến những lợi ích thiết thực hàng ngày của mỗi người dân, cổ vũ họ, chia sẻ với họ, cũng chính là chăm lo đến quyền con người, phát huy quyền làm người của mỗi người. Hơn ai hết, Người thấu hiểu rằng, động lực để thực hiện khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là nhân dân. Lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại khổ đau của Người trong Di chúc là thể hiện sự quan tâm của Người đến lợi ích của từng con người và lợi ích của cả cộng đồng. Đó cũng chính là sự biểu đạt đặc sắc chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, của nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh, suốt đời không màng danh lợi, chỉ khôn nguôi một hoài bão độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho đồng bào. Tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ làm cho mọi người Việt Nam xúc động mà cả người nước ngoài cũng ngưỡng mộ: nhà chính trị học người Mỹ, Rôbớt Uyliam phát biểu: “Nếu nước Mỹ chúng tôi có được một lãnh tụ giàu lòng nhân đạo và quyết tâm như Chủ tịch Hồ Chí Minh thì chắc chắn nước Mỹ sẽ đóng góp rất nhiều vào sự nghiệp của nhân loại”(16); nhà báo Australia, Burchett nhận xét: “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có ai khác ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh… Người ta không thể trở thành một Hồ Chí Minh nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một điều gì làm cho mình tốt hơn”(17).
2. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm qua, cùng với cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển thành phố trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh. Ngoài những chính sách mang tính thực tiễn cao, đi vào đời sống một cách sinh động, hiệu quả, thì việc chăm lo cho nhân dân với những công việc cụ thể như: công tác đền ơn, đáp nghĩa, tri ân những người có công với cách mạng, phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng; xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, xoa dịu nỗi đau chất độc màu da cam; chương trình xóa đói, giảm nghèo… được thành phố khởi xướng và thực hiện hữu hiệu, phần nào đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân.
* Công tác đền ơn, đáp nghĩa
Ngay sau khi thống nhất đất nước, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng Thành phố Hồ Chí Minh là một địa phương đi đầu trong cả nước với nhiều phong trào thiết thực, cụ thể trong công tác đền ơn đáp nghĩa mang tính nhân văn cao cả. Chăm lo, ưu đãi người có công với cách mạng là chủ trương, nhất quán, xuyên suốt được thành phố thực hiện trên tinh thần “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” thực sự. Những đối tượng chính sách, người có công luôn được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân thành phố quan tâm bằng trách nhiệm, tình cảm và tấm lòng biết ơn sâu sắc. Hiện nay, thành phố có khoảng 271.000 người có công, đứng thứ ba toàn quốc về số lượng người có công. Trong đó có gần 30.000 liệt sĩ, 27.000 thương binh, 3.000 bệnh binh, 5.333 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (248 mẹ còn sống)…
Ngoài đảm bảo chính sách của Trung ương, thành phố còn có sự hỗ trợ thêm cho nhiều diện chính sách. Những năm gần đây, thành phố phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh nặng bệnh binh nặng, thân nhân của 2 liệt sĩ trở lên… mỗi tháng 2 triệu đồng/người/tháng. Gần 700 trường hợp hàng tháng được thành phố phụng dưỡng như thế, chưa kể các quận, huyện, phường, xã vận động doanh nghiệp phụng dưỡng, chăm lo thêm. Khoảng 2.000 thương binh có nhu cầu dụng cụ chỉnh hình (chân tay giả) cũng được đáp ứng. Ngoài chế độ của Trung ương, thành phố đã hỗ trợ thêm 36 triệu đồng hoặc 15 triệu đồng cho mỗi trường hợp để đảm bảo các thương binh có dụng cụ chỉnh hình với công nghệ hiện đại, nhẹ, bền, đẹp, di chuyển dễ dàng.
Không những được các ngành, các cấp quan tâm, việc chăm lo cho người có công còn có sự tham gia của người dân, doanh nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi khai sinh “nhà tình nghĩa” và đến nay đã xây dựng trên 17.000 căn nhà tình nghĩa tặng các gia đình chính sách khó khăn về nhà ở. Với số lượng nhà tình nghĩa này, thành phố đã cơ bản đáp ứng nhu cầu nhà ở của các gia đình chính sách có công. Nhiều căn nhà đã xây dựng từ lâu, nếu bị xuống cấp mà các gia đình còn khó khăn thì thành phố tiếp tục hỗ trợ xây, sửa mới. Chỉ hơn 3 năm qua, thành phố đã sửa chữa, xây mới 3.061 nhà tình nghĩa.
Thành phố đã nâng cao mức sống vật chất, tinh thần của người có công, đảm bảo các gia đình chính sách có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của người dân ở địa phương. Với phương châm không để đối tượng chính sách thuộc diện nghèo, cận nghèo, ngoài hoạt động chung về giảm nghèo đa chiều, thành phố có ưu tiên hơn, vận động các doanh nghiệp, mạnh thường quân chăm lo thêm giúp các hộ sớm vượt nghèo.
Bên cạnh việc chăm sóc, tri ân người có công với cách mạng và thân nhân, công tác quy tập hài cốt (đã có gần 30.000 hài cốt liệt sĩ đã được quy tập, an nghỉ ở 7 nghĩa trang trên địa bàn thành phố; hàng năm, thành phố quy tập khoảng 50 hài cốt liệt sĩ) và xác định danh tính liệt sĩ đang tiếp tục được thành phố nỗ lực thực hiện.
Những việc làm đầy tình nghĩa đó đã góp phần làm vơi đi nỗi đau của các gia đình liệt sĩ, những người cha, người vợ và con em liệt sĩ đang ngày đêm khắc khoải đợi chờ. Và, đây không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm, lương tri sống ở đời và làm người; là nét đẹp văn hóa ứng xử, đạo lý sống của người Việt Nam nói chung và của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
* Chương trình xóa đói, giảm nghèo
Là một trong những đô thị lớn đông dân nhất nước, có tốc độ phát triển kinh tế cao, trong quá trình xây dựng và phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng cả nước ra sức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khơi dậy và tạo được những chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề xã hội bức xúc, nhất là tình trạng đói nghèo và phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp dân cư. Đồng thời, mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân thành phố, đòi hỏi phải có những chính sách, giải pháp cụ thể để giữ khoảng cách chênh lệch hợp lý, bảo đảm công bằng xã hội. Trước tình hình đó, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã mạnh dạn đưa ra một chủ trương sáng tạo nhưng cũng không kém phần táo bạo và quyết liệt, đó là mở cuộc vận động nhanh chóng xóa hộ đói, từng bước giảm hộ nghèo. Đây là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân nên được sự đồng thuận, hưởng ứng và tham gia tích cực của tất cả các tầng lớp nhân dân. Chương trình đã nhanh chóng đi vào thực tiễn cuộc sống và trở thành phong trào quần chúng sôi nổi, không chỉ giới hạn trong phạm vi thành phố (là địa phương khởi xướng đầu tiên) mà ngày càng lan rộng ra trên cả nước, phát huy mọi nguồn lực nhà nước và nhân dân, trong nước và ngoài nước cho sự nghiệp chống đói nghèo đầy khó khăn và thử thách.
Chương trình đã đi qua bốn giai đoạn với 8 lần điều chỉnh nâng mức chuẩn nghèo của thành phố: Giai đoạn một (1992-2003); Giai đoạn hai (2004-2010): năm 2008, thành phố cơ bản hoàn tất chương trình xóa đói, giảm nghèo giai đoạn hai, vì vậy thành phố quyết định chuyển sang giai đoạn ba; Giai đoạn ba (2009-2015): thành phố Hồ Chí Minh quyết định đổi tên chương trình xóa đói, giảm nghèo thành chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá với mục tiêu cao hơn và chuẩn nghèo đã được nâng lên tương đương với chuẩn nghèo của thế giới (thu nhập bình quân dưới 12 triệu đồng/người/năm, áp dụng cho cả nội thành và ngoại thành); Giai đoạn bốn (2016-2020): chuẩn nghèo thành phố đặt ra là hộ có thu nhập dưới 21 triệu đồng/người/năm, hộ cận nghèo có mức thu nhập dưới 28 triệu đồng/người/năm.
Bước vào giai đoạn xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình, trong giai đoạn 2016-2020, thành phố đưa ra mục tiêu tổng quát là: Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo, không để tái nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo, thành phố tiếp cận một cách tốt nhất các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục – đào tạo, y tế, việc làm, bảo hiểm xã hội, nhà ở, điều kiện sống, thông tin) nhằm cải thiện và nâng cao mức sống, điều kiện và chất lượng cuộc sống cho người nghèo, hộ nghèo, hộ cận nghèo thành phố, bảo đảm giảm nghèo bền vững. Căn cứ vào tình hình thực tiễn, thành phố chủ động đổi tên “Chương trình Giảm nghèo, tăng hộ khá” thành “Chương trình Giảm nghèo bền vững” của thành phố giai đoạn 2016-2020. Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều (thu nhập) sang đa chiều theo đúng tinh thần Nghị quyết số 76/2014/QH13, ngày 24/6/2014, của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, thành phố tập trung rà soát, bổ sung hoàn thiện các nhóm chính sách hỗ trợ giảm nghèo theo hướng giảm nghèo bền vững; mở rộng chính sách hỗ trợ theo từng chiều thiếu hụt của người nghèo, có chính sách ưu tiên đối với nhóm hộ nghèo theo diện ưu tiên từ 1 đến 3; bảo đảm chính sách giảm nghèo ban hành đi đôi với việc cân đối, bố trí nguồn lực của thành phố để tổ chức thực hiện. Đặc biệt, cuối năm 2018, Thành phố Hồ Chí Minh chỉ còn 104 hộ nghèo có thu nhập trong chuẩn cận nghèo quốc gia, cơ bản hoàn thành mục tiêu không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo thành phố giai đoạn 2016-2020 trước thời hạn 2 năm. Trong giai đoạn 2019-2020, thành phố sẽ áp dụng mức chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mới (hộ nghèo thu nhập 28 triệu đồng/người/năm trở xuống, mức chuẩn hộ cận nghèo thu nhập trên 28 triệu đồng/người/năm đến 36 triệu đồng/người/năm) và vẫn tiếp tục giữ nguyên 5 chiều với 11 chỉ số thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản phù hợp với thực trạng đời sống người dân và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Hiệu quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo; giảm nghèo, tăng hộ khá và nay là giảm nghèo bền vững không chỉ đơn thuần mang tính an sinh xã hội, nó còn tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Việc giải quyết công ăn việc làm cho các lao động nghèo không chỉ giúp họ và gia đình thoát nghèo đói mà còn tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của kinh tế thành phố. Đồng thời, khi lực lượng này có công ăn việc làm ổn định, các vấn đề khác như thất nghiệp, thất học, tội phạm… cũng được giảm thiểu đáng kể, góp phần giữ vững an ninh trật tự xã hội. Các hoạt động của chương trình xóa đói, giảm nghèo như đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn, hỗ trợ nhà ở, cấp bảo hiểm miễn phí, miễn giảm học phí, cấp học bổng… càng thể hiện rõ chính sách ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa là chăm lo đời sống cho cộng đồng yếu thế; kéo gần hơn mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Chưa kể, khi các đoàn thể chính trị tham gia công tác này càng tạo thêm vị thế cho tổ chức trong dân, gắn bó sâu sát hơn với cuộc sống của nhân dân. Các nhóm hộ nghèo tham gia chương trình, cùng hỗ trợ nhau tìm cách thoát nghèo đã tạo thành những mối liên hệ chặt chẽ, đoàn kết trong từng cụm cộng đồng dân cư, xây dựng đời sống văn hóa…
Sau 26 năm thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều thành quả vượt bậc, trở thành địa phương đi đầu trong cả nước về công tác này. Có được những thành tựu nói trên, trước hết phải kể đến chủ trương đúng đắn của Đảng bộ và chính quyền thành phố: đã nhanh chóng nhận ra mặt trái của kinh tế thị trường trong việc phân hóa giàu nghèo và mạnh dạn đề xuất chương trình này để ngăn chặn kịp thời. Nhờ chủ trương đúng lại hợp lòng dân, cho nên tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, không chỉ bộ máy chính trị, mà tất cả các tầng lớp nhân dân đều hưởng ứng và tích cực tham gia. Không chỉ giới hạn trên địa bàn thành phố, sau khi thấy hiệu quả của chương trình, nhiều địa phương khác cũng học tập và dần dần xóa đói, giảm nghèo, trở thành chủ trương chung của cả nước, phát huy mọi nguồn lực Nhà nước và nhân dân, trong nước và ngoài nước cho sự nghiệp chống đói nghèo đầy khó khăn thử thách.
***
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như một văn kiện lý luận quan trọng của Đảng, di sản văn hóa thiêng liêng của dân tộc, thể hiện tinh thần mẫn tiệp, đạo đức cao thượng của Hồ Chí Minh. Xuyên suốt trong Di chúc Người để lại là những trăn trở, tâm nguyện cho dân, cho nước để mọi người dân được ấm no, tự do, hạnh phúc; trong đó, việc quan tâm đến con người - không chỉ quan tâm, chăm sóc mà còn tạo điều kiện để con người vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. Đây là công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp”(18). Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách chăm lo đời sống nhân dân, từ đó tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền, đóng góp sức người sức của cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia – xứng đáng với lời căn dặn và mong muốn cuối cùng của Người trong Di chúc là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(19).
TS. Nguyễn Thị Hoa Xinh (theo tạp chí Tuyên giáo)